[Văn 11] Phân tích Chiếu cầu hiền để thấy tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung
Mở bài
Năm 1788, triều Lê – Trịnh sụp đổ, vua Quang Trung xây dựng lại đất nước nhưng còn gặp nhiều trở ngại do đất nước loạn lạc, kẻ sĩ bi quan, chán chường. Mặc khác, vẫn không ít sĩ phu, nhân tài bảo thủ với triều đại cũ mà bất hợp tác với triều đình Tây Sơn. Trước tình hình ấy, Quang Trung đã ban Chiếu cầu hiền để thuyết phục trí thức Bắc Hà hiểu đúng vai trò và sứ mệnh xây dựng đất nước. Mặc dù người trực tiếp viết chiếu thư là Ngô Thì Nhậm nhưng nội dung tư tưởng vẫn là của vua Quang Trung.
Thân bài
Bằng lối văn nghị luận cổ, Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm thể hiện thành công qua cách viết súc tích, thiết thực. Văn bản được chia làm 4 phần rõ ràng theo bố cục của một bài chiếu cũng là theo cách thuyết phục người hiền của vua Quang Trung.
Mở đầu bài chiếu, tác giả đã đưa ra quy luật xử thế của người hiền bằng hình ảnh so sánh độc đáo: người hiền như ngôi sao sáng còn thiên tử như sao Bắc thần. Chỉ khi quy phục sao Băc thần thì những ngôi sao kia mới sáng thật sự cũng như chỉ khi phụng sự vua, phục vụ cho nhân dân thì bản lĩnh và tài năng của họ mới thật sự phát huy. Thế nên việc người hiền quay về, tìm đến dưới trướng vua là thuận theo lẽ tự nhiên, hợp lòng dân, ý trời. Để tăng sức thuyết phục, tác giả đưa ra phản đề đánh đúng tâm lí những kẻ sĩ đang ở ẩn. Bên cạnh đó, Ngô Thì Nhậm còn mượn cứ liệu từ sử sách Trung Quốc như luận ngữ của Khổng Minh vừa hợp lòng sĩ tử vừa cho thấy Quang Trung cũng là người hiền, từng đọc sách thánh hiền.
Sau khi khẳng định cách xử thế đúng đắn của hiền tài, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra những chứng cứ xác thực trực tiếp từ việc ứng xử của các sĩ phu Bắc Hà.
“Trước đây thời thế suy vi…lẩn tránh suốt đời” là những ví dụ điển hình trước đây kẻ sĩ mai danh ẩn tích, trốn tránh việc đời hoặc chọn nhầm con đường…Qua đó, tác giả cũng thể hiện rõ quan điểm của nhà vua. Quang Trung cho những điều đó là sai lầm nhất thời, là vạn bất đắc dĩ, không truy cứu, không trách cứ những chuyện đã qua. Đối với sĩ phu Bắc Hà từng nhận lộc của vua Lê – Trịnh, nặng chữ trung nên khó chấp nhận việc thay đổi triều đại, Quang Trung cũng đề cập đến một cách rất chi tiết bằng việc phân tích nguyên nhân và lí giải thấu tình. Tác giả Ngô Thì Nhậm đã truyền đạt lại suy nghĩ của vua bằng những lời lẽ châm biếm nhưng không hề khiến người nghe phẫn uất. Ngược lại những điều chiếu ban trở thành ân tình mà lẽ ra các sĩ phu phải đón nhận từ sớm. Tấm lòng của bậc minh vương thánh đế thể hiện qua cách cư xử và thái độ trân trọng người hiền dù trước kia người ấy có ý đối nghịch với chính mình.
Kẻ sĩ là những người học hành để phụng sự cho đất nước. Vậy đang lúc xả tắc đang cần há chẳng phải là lúc thích hợp nhất để người hiền trong thiên hạ bộc lộ khả năng của mình? Để chỉ ra nhu cầu của đất nước trong thời điểm hiện tại, người viết không giấu giếm những yếu kém về kinh tế, chính trị, xã hội nhưng lại có cách nói khéo léo. Đất nước gặp rất nhiều khó khăn, bao nhiêu nhiệm vụ mới mẻ chưa hoàn tất, từ việc binh đao nơi biên cương đến việc học hành, chỉnh đốn văn hóa đều rất cần người tài giúp sức. Đã vậy mà nội bộ triều đình lại rối ren, một vị minh quân dù có tài giỏi đến nhường nào cũng không thể quán xuyến hết một đất nước nếu không có những cánh tay đắc lực. Giọng điệu vừa tha thiết, chân thành vừa khiêm nhường, hiểu biết khiến người hiền không thể không giúp triều đình. Qua đấy ta cũng thấy được tấm lòng và trí tuệ của vua Quang Trung.
Sau khi đánh đúng tâm lí trung quân ái quốc của các sĩ phu Bắc Hà, nhà vua đã vạch ra đường lối cầu hiền từ việc chỉ ra đối tượng đất nước đang cần đến những biện pháp, cách thức mà hiền tài nên thực hiện để đóng góp sức lực cho triều đình. Theo đó mọi viên quan trăm họ đều được dâng sớ tấu để trình bày kế hoạch, cho phép viên quan văn võ tiến cử hiền tài đồng thời khuyến khích người có tài tự tiến cử. Mọi tư tưởng tiến bộ trong chính sách trị nước của Quang Trung thể hiện rõ ràng . Nhà vua không chỉ trọng tầng lớp trí thức như trước đây mà còn đãi ngộ với những thợ thủ công, nghệ nhân lành nghề giỏi thực hành. Qua những chính sách rất thiết thực, cụ thể và rất khả thi, chúng ta thấy rằng Quang Trung là chẳng những là vị vua anh minh tài giỏi về mặt quân sự, chính trị mà còn là một nhà quản lí, tổ chức khéo léo.
Để kết thúc bài Chiếu, tác giả một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của hiền tài đối với đất nước và tính cấp thiết của vấn đề qua lời kêu gọi tha thiết, khích lệ cùng chung một gánh giang sơn “Nay trời trong sáng, đất thanh bình chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình..”
Kết bài
Bằng lời văn sáng tạo, súc tích, lập luận chặt chẽ, khúc chiết nhưng thấu tình đạt lí, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phụng sự cho đất nước. Thông qua đó, chúng ta nhìn rõ hơn về tài năng và đức độ của một vị vua áo vải.